Cũng như các cuộc điều tra về doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) trước đây (năm 2005, 2007 và 2009), cuộc điều tra năm 2011 được phối hợp thực hiện bởi CIEM, Viện Khoa học Lao động, Khoa Kinh tế Trường Đại học Copenhagen và Viện nghiên cứu kinh tế phát triển Thế giới-Trường Đại học Liên hợp quốc với sự tài trợ của Cơ quan hợp tác phát triển Đan Mạch (DANIDA).
Báo cáo dựa trên thông tin điều tra từ khoảng 2,500 DNNVV hoạt động trong lĩnh vực sản xuất và được thực hiện tại 10 tỉnh thành trong đó có Hà Nội, Hải Phòng, TP. Hồ Chí Minh, Khánh Hoà và Lâm Đồng.
Theo báo cáo, khoảng 30% doanh nghiệp thực hiện các khoản thanh toán không chính thức để đối phó với các cơ quan thuế trong năm 2011, tăng lên so với tỷ lệ 26% của năm 2009. Gần 26% các khoản chi phi chính thức liên quan đến các dịch vụ công (tăng lên so với tỷ lệ 20% trong năm 2009). Khoảng gần 10% doanh nghiệp chi không chính thức để có được giấy phép và sự cho phép và hơn 5% chi các khoản này để đối phó với khách hàng trong năm 2011.
Báo cáo cũng chỉ ra rằng các doanh nghiệp lớn có xác suất chi hối lộ cao hơn khoảng 10% so với các doanh nghiệp siêu nhỏ. Các doanh nghiệp có đăng ký có xác suất chi hối lộ cao hơn 22-23% so với các doanh nghiệp phi chính thứ. Các doanh nghiệp ở khu vực miền Nam có tỷ lệ chi hối lộ thấp hơn so với các doanh nghiệp ở miền Bắc.
Báo cáo lại đưa ra một phát hiện hết sức bất ngờ đó là: các doanh nghiệp bỏ ra nhiều chi phí không chính thức (hối lộ) không tạo ra nhiều lao động hơn các doanh nghiệp không đưa hối lộ.
Theo nhận xét của Tiến Sỹ Phạm Thị Thu Hằng, Tổng thư ký, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI): phải chăng những doanh nghiệp làm ăn “không bài bản” có vẻ như sẽ quan tâm nhiều hơn đến việc phải bỏ ra các chi phí không chính thức. Ngược lại, các doanh nghiệp làm ăn chân chính cũng vẫn có thể phát triển một cách bình thường. Điều này cho thấy môi trường kinh doanh ở Việt Nam có rất nhiều cải thiện trong những năm gần đây.
Theo báo cáo, các DNNVV vẫn vấp phải rào cản tín dụng đó là: số lượng DN có khoản vay phi chính thức gấp đôi số lượng DN có khoản vay chính thức. Tiến sỹ Phạm Thị Thu Hằng cho rằng: “Điều này khẳng định nhu cầu tín dụng của các DNNVV vẫn rất cao và các rào cản tín dụng với các DNNVV vẫn chưa được cải thiện nhiều hay nói chính xác hơn, các chính sách hỗ trợ với họ vẫn chưa vượt qua các rào cản và chưa được quan tâm thoả đáng.
Đặc biệt báo cáo có đưa ra một vấn đề đáng báo động là: tỷ lệ doanh nghiệp cải tiến sản phẩm có xu hướng giảm. Bình luận vấn đề này, bà Hằng thẳng thắn cho rằng: trong bối cảnh hiện nay khi mà thị trường của các DNNVV chủ yếu là thị trường nội địa và vấn nạn hàng nhập lậu vẫn còn nhức nhối thì việc cải tiến sản phẩm là vô cùng quan trọng.
“Nếu xu hướng này tiếp tục kéo dài thì rất có thể các DNNVV sẽ phải sớm rút lui khỏi thị trường. Thực tế cho thấy, trong 9 tháng đầu năm 2012, vấn đề tồn kho là một vấn đề lớn và đã có trên 42,000 DN phải ngừng hoạt động và giải thể,” bà nhấn mạnh.
Nam Hằng
nguon:dantri